• Học tập trải nghiệm trên quê hương em

KHU TRẢI NGHIỆM GIÁO DỤC HÁT MÔN

Đăng vào lúc 11/05/2020

KHU TRẢI NGHIỆM GIÁO DỤC HÁT MÔN

 

Khu di tích ĐỀN HÁT MÔN

Hát Môn nghĩa là cửa sông Hát- nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề tụ nghĩa vào năm 40 đầu công nguyên, trước khi xuất quân đuổi thái thú Tô Định về Hán để trả nợ nước, thù nhà. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, khôi phục nền độc lập của đất nước, Hai Bà được suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc bây giờ). Năm 43, vua Hán sai danh tướng Mã Viện cùng hai vạn quân, hai nghìn thuyền xe sang xâm lược lại nước ta. Sau một năm anh dũng chống giặc, vì sức yếu nên quân ta phải rút về Cẩm Khê. Khi qua vùng căn cứ cũ, Hai Bà đã ghé vào một quán ven đường của một bà lão, ăn một đĩa bánh trôi và hai quả muỗm, sau đó Hai Bà gieo mình xuống sông Hát để tránh không sa vào tay giặc, hôm đó là ngày 6 tháng 3 âm lịch.

Theo như Huyền tích Hà Nội, sau khi chết, linh khí của Hai Bà kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi tới thời Lý mới đến vùng Thăng Long. Một đêm đầu tháng hai âm lịch, hai pho tượng tỏa ánh sáng đỏ trên dòng sông Nhị trước bãi Đồng Nhân. Dân làng kính nghĩa lấy vải đỏ làm lễ buộc tượng rước các bà vào. Vì thế, đền thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn được coi là nơi thánh tích, đền thờ Hai Bà ở phố Đồng Nhân (nay thuộc quận Hai Bà Trưng) được coi là nơi hiển tích, còn đền thờ ở Mê Linh là nơi Hai Bà sinh ra và đóng đô.

Đền Hát Môn rộng tới hơn 3ha, tọa lạc trên khu đất cổ có thế long chầu hổ phục, phía trước là gò con rùa và sông Hát chảy từ bên hữu sang bên tả. Theo sách “Lĩnh Nam chích quái” thì đền được xây dựng sau khi Hai Bà Trưng hóa thân vào cõi bất diệt, do đó đây là ngôi đền cổ nhất trong hệ thống đền thờ Hai Bà.

Trong đền còn nhiều cổ vật quý giá có giá trị lịch sử và mang đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê – Nguyễn. Người dân nơi đây quan niệm rằng, máu Hai Bà cùng chiến sĩ đổ xuống để tô thắm non sông, vì vậy toàn bộ đồ thờ ở đền đều sơn màu đen, kị màu đỏ. Trước kia, người đến tế lễ, dự lễ hội ở đền Hát Môn đều không được vận quần áo, trang phục màu đỏ. Gắn với thánh tích, mọi thứ trong đền đều đi đôi: hai hương án, hai long ngai, hai kiệu rước, hai lư hương, khi tiến hành đại lễ thì có hai chủ tế, hai người đọc chúc văn… Đây cũng là nét độc đáo chỉ có riêng tại đền thờ Hai Bà ở Hát Môn.

Một số hình ảnh về ĐỀN HÁT MÔN:

Khu CÔNG VIÊN SÔNG HÁT

Cửa sông Hát (Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây) là nơi khởi phát công cuộc tụ nghĩa và khởi nghĩa. Thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa là niên hiệu Kiến Vũ thứ 16 tức năm 40 SCN.

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng lập tức được sự hưởng ứng của các lạc tướng và nhân dân quận Giao Chỉ rồi toàn miền Nam Việt và Âu Lạc cũ. Xuất phát từ Hát Môn, Hai Bà đánh phá đô uý trị của giặc ở Hạ Lôi (Mê Linh) sau đó kéo quân từ Mê Linh xuống Tây Vu đánh chiếm Cổ Loa, từ Cổ Loa, quân của Hai Bà vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh chiếm Luy Lâu (nay ở Lũng Khê, Thuận Thành, Bắc Ninh) là châu trị và quận trị của bọn đô hộ nhà Hán

Hoảng sợ trước khí thế ngút trời của nhân dân Âu Lạc, bọn địch không dám chống cự bỏ chạy tháo thân về nước. Thái thú Tô Định cũng lẻn trốn về nước. Chỉ trong vòng hai tháng, nghĩa quân Hai Bà Trưng giải phóng toàn bộ đất nước (65 quận, huyện, thành), giành chủ quyền về tay dân tộc.

Mùa hè năm Canh tý (40) Bà Trưng Trắc được tướng sĩ tôn lên làm vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở quê nhà là lỵ sở huyện Mê Linh cũ. Bà Trưng Nhị được phong là Bình khôi Công chúa. Các tướng sĩ khác đều được phong thưởng chức tước, tiền bạc, ruộng đất. Dân cả nước được xá thuế hai năm liền.

Mùa hè năm 42 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 17), nhà Đông Hán phong Mã Viện làm phục Ba tướng quân, thống lĩnh quân sĩ sang đánh nước ta. Mùa hè năm 43 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 18), quân Mã Viện tiến qua Long Biên, Tây Vu đến Lãng Bạc ở phía đông Cổ Loa. Hai Bà Trưng đã tiến quân từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đánh quân xâm ược. Mã Viện là viên tướng có dày dặn kinh nghiệm trận mạc, có số quân đông, thiện chiến, có các lực lượng thủy bộ phối hợp, lại rất thành thạo lối đánh tập trung theo kiểu trận địa chiến. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch và sau một thời gian hồi sức trở lại, Mã Viện đã dần dần giành thế chủ động. Trong khi đó Hai Bà Trưng lực lượng vừa tập hợp, còn quá non trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, không có khả năng cầm cự lâu dài với quân xâm lược Đông Hán ở Lãng Bạc. Quân của Trưng Vương càng ngày càng bộc lộ rõ thế yếu, bị thiệt hại nặng. Có đến hàng nghìn người bị bắt và hy sinh trêm chiến lũy. Nếu cứ tiếp tục duy trì lực lượng ở Lãng Bạc thì quân đội Trưng Vương sẽ không thể giữ nổi căn cứ này và có thể sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Thấy không thể kéo dài thời gian cầm cự với Mã Viện được nữa. Trưng Trắc quyết định rút quân khỏi Lãng Bạc, lui về giữ thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Thành Cổ Loa kiên cố, thủy bộ liên hoàn đã được Trưng Vương sử dụng, khai thác tất cả lợi thế của nó để hy vọng chặn đứng và tiêu diệt đoàn quân xâm lược đã giành được thế chủ động và đang ào ạt tiến về hướng kinh thành Mê Ling. Lúc này chiến trường trải rộng khắp vùng Từ Sơn, Tiên Du, Đông Anh và nhất là khu vực xung quanh Cổ Loa. Nhiều tướng lĩnh của Trưng Vương đã chiến đấu và hy sinh trong những ngày tháng này như Đồng Bảng ở Gia Lộc (Đại Hùng, Đông Anh) Thủy Hải, Đăng Giang ở Đại Vĩ (Hà Vĩ, Liên Hà, Đông Anh)…

Tòa thành Cổ Loa kiên cố cũng không giúp Trưng Trắc bảo toàn được lực lượng trước sức tấn công ào ạt của Mã Viện, bà phải đem quân về kinh thành Mê Linh ở Hạ Lôi (Mê Linh, Vĩnh Phúc). Nhưng quân Đông Hán rất mạnh, nên Hai Bà Trưng phải lui quân về giữ các thành ở Hạ Lôi, Cự Triền. Mã Viện đem quân thuỷ, bộ đuổi theo. Cuộc cầm cự diễn ra ác liệt cuối cùng Hai Bà bị thương nặng và gieo mình xuống dòng sông Hát tự trẫm chứ không chịu sa vào tay giặc. Các tướng của Hai Bà phần nhiều bị thương phải chạy về bản doanh của mình, có người đã hy sinh.

Cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Sau ba năm, đất nước và nhân dân ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Nhưng khởi nghĩa Hai Bà Trưng mở đầu cho truyền thống đấu tranh chống các thế lực phương Bắc đô hộ nước ta. Là tấm gương để các bậc anh hùng hào kiệt dân tộc kế tiếp nhau đứng lên đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập chủ quyền dân tộc.

CÔNG TY GIÁO DỤC QUỐC TẾ THỜI ĐẠI đem hồn của câu chuyện truyền thuyết về DÒNG SÔNG HÁT, đầu tư xây dựng tôn tạo trở lại như dòng sông năm xưa, hai bên trồng các loại cây thế mạnh của vùng quê Hát Môn: bưởi, cam, mít, chuối, . . . thành khu công viên cây xanh. Đặt tên là CÔNG VIÊN SÔNG HÁT.

Ngoài cây xanh, cây ăn quả, hoa, và lợi thế của dòng sông huyền thoại năm xưa, tại khu thôn 5 và khu LÀNG là khu trung tâm đóng gói sản phẩm nông nghiệp xanh sạch,khu THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, khu học tập ROBOTICS, . . . cho học sinh mọi nơi đến trải nghiệm tiếp cận công nghệ 4.0

Tại đây cũng tích hợp 1 bể bơi mini, 1 sân bóng mini, các khu trải nghiệm: nấu ăn thôn quê, trượt cỏ, câu cá, cảm nhận công nghệ 4.0, các khâu cung ứng dịch vụ vận chuyển tiêu thụ hàng nông sản xanh sạch HÁT MÔN, ...

Khu NÔNG NGHIỆP XANH SẠCH HÁT MÔN

Hát Môn có địa thế rất đặc biệt, đất cát phù sa bồi đắp tạo nên những cánh đồng rộng mênh mông, các sản phẩm nông nghiệp nơi đây được thiên nhiên ưu đãi hoa thơm trái ngọt đầy đồng, đầy bãi.

1) Khu nông nghiệp xanh sạch 1: LÀNG, nằm ngay sát khu trung tâm điều hành TMĐT.

2) Khu nông nghiệp xanh sạch 2: BÃI, nằm cuối công viên SÔNG HÁT.

3) Khu nông nghiệp xanh sạch 3: ĐỒNG, nằm sát khu ĐỀN.

Khu HỌC TẬP 4.0 - TRUNG TÂM ĐIỀU HÀNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ NÔNG THÔN

Bản vẽ quy hoạch mô hình: